浅析越南语的翻译艺术Dịch thuật, một vấn nạn ngôn ngữ 23.12.01 Dịch thuật có liên quan mật thiết đến việc phân tích và so sánh cấu trúc ngữ pháp các ngôn ngữ. Những thành quả nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại có thể được áp dụng như thế nào trong việc này, cụ thể hơn nữa là trong việc dịch từ các thứ tiếng như tiếng Anh và tiếng Ðức sang tiếng Việt? Dũng Vũ, tác giả công trình nghiên cứu Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại - Sơ khảo về cú pháp, sắp xuất bản, tìm cách trả lời câu hỏi này trong bài viết sau.Xưa nay đã có nhiều cuộc bàn luận về dịch thuật. Người ta có thể bàn đủ thứ, song có lẽ ít ai nhận ra cái hệ quả tai hại của dịch thuật, đặc biệt là giới dịch thuật khoa học nhân văn. Hầu hết người dịch chỉ quan tâm đến cái khó của dịch thuật là làm sao chuyển tải chính xác ý tưởng một văn bản được viết bằng một thứ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ dịch. Dịch văn đã khó, dịch thơ càng khó nữa. Ðại để, người ta chỉ chú tâm vào khía cạnh ấy và xem đó như một vấn đề. Tuy nhiên, đó không phải là vấn đề chính. Cái vấn đề chính là dịch thuật có thể phá hư ngôn ngữ mà ít ai để ý. Phải xem đấy là vấn nạn thì đúng hơn và tiếng Việt là một nạn nhân điển hình của vấn nạn dịch thuật. Không cần học ngôn ngữ học, không cần hiểu biết các lý thuyết ngữ pháp phức tạp, ai cũng biết, mỗi ngôn ngữ đều có cấu trúc riêng, nếu anh/chị ấy biết ít nhất hai ngôn ngữ. Ngôn ngữ không bất định mà có ngữ pháp. Mỗi ngôn ngữ đều có ngữ pháp riêng. Ngữ pháp của một ngôn ngữ không phải là cái gì ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống mà có quy tắc và logic, nó là kết quả của nguyên tắc hành ngôn đặc thù. Ví dụ tiếng Anh là một loại ngôn ngữ tuyến tính, tiếng Ðức không tuyến tính, tiếng Việt là một ngôn ngữ tịnh tiến (1). Nhờ thẩm năng ngôn ngữ, con người sẽ nhận ra ngay, một câu nói có phải là ngôn ngữ mà mình thông thạo hay không. Thử xem một ví dụ, Lê Văn Lý (1948) dùng 5 chữ tạo ra nhiều câu: Sao nó bảo không đến? Sao bảo nó không đến? Sao không đến bảo nó? Sao nó không bảo đến? Sao? Ðến bảo nó không? Sao? Bảo nó đến không? Nó đến, sao không bảo? Nó đến, không bảo sao? Nó đến bảo không sao. Nó bảo sao không đến? Nó đến, bảo sao không? Nó bảo đến không sao. Nó bảo không đến sao? Nó không bảo, sao đến? Nó không bảo đến sao? Nó không đến bảo sao? Bảo nó sao không đến? Bảo nó: Ðến không sao. Bảo sao nó không đến? Bảo nó đến, sao không? Bảo nó không đến sao? Bảo không, sao nó đến? Bảo! Sao, nó đến không? Không bảo, sao nó đến? Không đến bảo nó sao? Không sao, bảo nó đến. Không bảo nó đến sao? Không đến, bảo nó sao? Không đến, nó bảo sao? Ðến bảo nó không sao. Ðến không? Bảo nó sao? Ðến không? Nó bảo sao? Ðến, sao không bảo nó? Ðến bảo nó sao không? Ðến, sao nó không bảo. Ðến, nó bảo không sao. Ðến, nó không bảo sao? Ðến, sao bảo nó không? Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5! [5 giai thừa]). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được. Tạm cho là vậy, nhưng thế nào là nói được? Tại sao người Việt thấy câu “Nó đến, sao bảo không?” nói được nhưng câu “Nó đến không sao bảo” thì không nói được? Người Việt còn có cảm giác ấy, nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao? Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn cái kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận.Với trò chơi hoán vị 5 từ bên trên, theo lý thuyết, ta sẽ được 120 chuỗi từ khác nhau (theo công thức 5! [5 giai thừa]). Song thực ra chỉ có 38 chuỗi từ nói được. Tạm cho là vậy, nhưng thế nào là nói được? Tại sao người Việt thấy câu “Nó đến, sao bảo không?” nói được nhưng câu “Nó đến không sao bảo” thì không nói được? Người Việt còn có cảm giác ấy, nhưng người ngoại quốc không rành tiếng Việt thì sao? Cảm thấy một câu, một thành tố, một chuỗi từ, một cụm từ nói được bởi vì trong vô thức của từng người Việt đã tồn tại sẵn cái kho tàng cấu trúc tiếng Việt. Chỉ có những cấu trúc nhất định người Việt mới chấp nhận. Một ví dụ khác. Giả sử người Việt nói: Một cô gái đẹp. Cùng nội dung ấy, người Anh sẽ nói: “a pretty girl”, hoặc người Ðức: “ein schönes Mädchen”. Rõ ràng hai cấu trúc cú pháp khác nhau (2). Ðặt câu hỏi, vì sao người Việt không đặt tính từ “đẹp” trước danh từ “cô gái” mà nói “một đẹp cô gái” cho giống người Anh, người Ðức? Người Tàu nói một “mỹ nhân”. “Mỹ” là “đẹp”, “nhân” là “người”. Tại sao người Việt lại đi nói ngược thành “người đẹp”. Nói theo ngôn ngữ học là tại sao danh từ trong tiếng Hoa được bổ nghĩa bên trái, còn tiếng Việt thì bên phải? Cái gì cũng có nguyên nhân của nó. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thường dùng nguyên tắc đề diễn (theme/subject interpretation). Người Việt thường lập câu tịnh tiến để diễn đạt nguyên tắc này. Nguyên tắc đề diễn nói lên trình tự nhận diện và nhận thức về một đối tượng muốn diễn tả. Cái trình tự này giống như một hàm số vậy,。